Không đăng ký kết hôn cha có được quyền nuôi con khi ly hôn là câu hỏi được đặt ra khi người cha mong muốn giành quyền nuôi con. Khi quan hệ hôn nhân của cha mẹ không được xác lập sẽ dẫn đến nhiều bất lợi về mặt pháp lý khi xảy ra tranh chấp về con chung. Do dó, hãy cùng tìm hiểu các điều kiện mà cha cần đáp ứng để được nuôi con, cách thức để giành quyền nuôi con qua bài viết dưới đây.
Mục lục
Không đăng ký kết hôn cha có được quyền nuôi con khi ly hôn là câu hỏi được đặt ra khi người cha mong muốn giành quyền nuôi con. Khi quan hệ hôn nhân của cha mẹ không được xác lập sẽ dẫn đến nhiều bất lợi về mặt pháp lý khi xảy ra tranh chấp về con chung. Do dó, hãy cùng tìm hiểu các điều kiện mà cha cần đáp ứng để được nuôi con, cách thức để giành quyền nuôi con qua bài viết dưới đây.
Không đăng ký kết hôn cha có được quyền nuôi con khi ly hôn
Vấn đề pháp lý khi không đăng ký kết hôn
Thế nào là không đăng ký kết hôn?
Căn cứ khoản 5 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về khái niệm: Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.
Từ đó, muốn xác lập quan hệ hôn nhân hợp pháp thì nam và nữ phải tiến hành đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 như sau:
Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch.
Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý.
Như vậy, không đăng ký kết hôn được hiểu theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 là khi Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.
Hậu quả của việc không đăng ký kết hôn
Thứ nhất, không được công nhận quan hệ hôn nhân:
Thời kỳ hôn nhân không được bắt đầu khi không đăng ký kết hôn. Do đó, căn cứ Điều 14 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định:
Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.
Thứ hai, ảnh hưởng đến thủ tục làm khai sinh cho con:
Nam, nữ sống chung với nhau mà chưa đăng ký kết hôn vẫn làm giấy khai sinh cho con nhưng thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 15 Nghị định 123/2015 NĐ-CP như sau:
- Trường hợp chưa xác định được cha thì khi đăng ký khai sinh họ, dân tộc, quê quán, quốc tịch của con được xác định theo họ, dân tộc, quê quán, quốc tịch của mẹ; phần ghi về cha trong Sổ hộ tịch và Giấy khai sinh của trẻ để trống.
- Nếu vào thời điểm đăng ký khai sinh người cha yêu cầu làm thủ tục nhận con theo quy định tại Khoản 1 Điều 25 của Luật Hộ tịch thì Ủy ban nhân dân kết hợp giải quyết việc nhận con và đăng ký khai sinh; nội dung đăng ký khai sinh được xác định theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 của Nghị định này.
Thứ ba, khó khăn khi yêu cầu cấp dưỡng nuôi con:
Căn cứ Điều 101 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con:
- Cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền xác định cha, mẹ, con theo quy định của pháp luật về hộ tịch trong trường hợp không có tranh chấp.
- Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết và trường hợp quy định tại Điều 92 của Luật này.
Quyết định của Tòa án về xác định cha, mẹ, con phải được gửi cho cơ quan đăng ký hộ tịch để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch; các bên trong quan hệ xác định cha, mẹ, con; cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Do đó, chỉ khi được cơ quan có thẩm quyền công nhận thì mối quan hệ cha, mẹ, con mới hợp pháp.
Từ đó, căn cứ khoản 1 Điều 107 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định nghĩa vụ cấp dưỡng được xác định:
Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con; giữa anh, chị, em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột; giữa vợ và chồng theo quy định của Luật này.
Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác.
Như vậy, con chung tuy có quan hệ huyết thống nhưng muốn yêu cầu cấp dưỡng nuôi con thì phải chứng minh quan hệ huyết thống với người có nghĩa vụ và thực hiện thủ tục xác nhận cha mẹ với con.
Thứ tư, khó phân chia tài sản, thừa kế:
Căn cứ khoản 1 Điều 16 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định Giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn như sau:
Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Do đó, tài sản đứng tên ai thì thuộc về người đó, tài sản chung sẽ giải quyết theo thoả thuận hoặc yêu cầu Toà án giải quyết. Các bên không phải là người thừa kế của nhau khi không được công nhận quan hệ hôn nhân, những tài sản chung mà vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân sẽ không được chia theo luật hôn nhân và gia đình mà áp dụng quy định của pháp luật dân sự.
Vì những lẽ trên, khi có tranh chấp phát sinh thì việc giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ sống chung với nhau mà không đăng ký kết hôn chủ yếu sẽ được giải quyết theo thoả thuận của các bên. Trường hợp không thoả thuận được thì cơ quan có thẩm quyền sẽ giải quyết theo Bộ luật Dân sự và quy định có liên quan với điều kiện vẫn đảm bảo lợi ích cho người phụ nữ và con.
Cha có quyền nuôi con khi không đăng ký kết hôn?
Mặc dù nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng và không xác lập quan hệ hôn nhân nhưng quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con vẫn được giải quyết theo quy định thông thường theo quy định tại Điều 15 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
Như vậy, theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, cha có thể thoả thuận với mẹ để được trực tiếp nuôi con, nếu không thoả thuận được thì cha phải đảm bảo được quyền lợi tốt nhất cho con về mọi mặt để nhận được sự chấp thuận từ Toà án về việc được giao quyền trực tiếp nuôi dưỡng con khi phát sinh tranh chấp. Tuy nhiên, cần lưu ý các trường hợp sau:
- Con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con;
- Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
>> Xem thêm: Chưa đăng ký kết hôn ai được quyền nuôi con khi ly hôn
Điều kiện để cha giành quyền nuôi con khi ly hôn?
Để giành được quyền nuôi con hợp pháp thì người cha cần đáp ứng các điều kiện sau:
Cha không thuộc trường hợp bị Toà án hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên theo quy định tại khoản 1 Điều 85 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
Người cha chứng minh được mình có điều kiện, khả năng tốt hơn đối phương để đảm bảo sự phát triển của con về mọi mặt như:
- Điều kiện kinh tế: chứng minh mình có đủ điều kiện vật chất về thu nhập, tài sản, chỗ ở ổn định,… để đảm bảo chăm sóc sức khoẻ và giáo dục cho con.
- Điều kiện tinh thần: Chứng minh bản thân có đủ thời gian bên con, chăm sóc, nuôi dưỡng, dạy dỗ và ưu tiên việc chăm sóc con cái lên hàng đầu.
Các tiêu chí cần có khi cha muốn nuôi con
>>> Xem thêm: Điều kiện để cha được nuôi con khi ly hôn
Cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp quyền nuôi con
Căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định đối với các tranh chấp về nuôi con thì thẩm quyền giải quyết thuộc về Toà án Nhân dân.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định Toà án cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm tranh chấp sau:
Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này, trừ tranh chấp quy định tại khoản 7 Điều 26 của Bộ luật này.
Như vậy, tranh chấp quyền nuôi con là tranh chấp hôn nhân và gia đình nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án Nhân dân cấp huyện.
Tuy nhiên, căn cứ khoản 3 Điều 35 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định trường hợp:
Những tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này.
Như vậy, khi tranh chấp có đương sự ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án Nhân dân cấp tỉnh theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 37 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
Tuy nhiên căn cứ khoản 4 Điều 35 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 thì Trường hợp tranh chấp về quyền và nghĩa vụ cha mẹ và con giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam theo quy định của Bộ luật này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam thì Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam có thẩm quyền giải quyết.
Cùng với đó, thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 được xác định như sau:
- Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này;
- Các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này;
Như vậy, Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc hoặc toà án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về quyền nuôi con.
Tư vấn cha giành quyền nuôi con khi không đăng ký kết hôn
- Tư vấn hướng giải quyết trong tranh chấp quyền nuôi con;
- Tư vấn các quy định pháp luật về thay đổi người trực tiếp nuôi con khi khi ly hôn;
- Hỗ trợ, hướng dẫn khách hàng soạn thảo đơn từ cần thiết;
- Đại diện theo uỷ quyền khách hàng làm việc, liên hệ với cơ quan có thẩm quyền và có liên quan trong quá trình giải quyết tranh chấp;
- Chuẩn bị hồ sơ pháp lý;
- Đại diện tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng;
- Các công việc khác theo thoả thuận và quy định của pháp luật.
Tư vấn của Luật sư về tranh chấp quyền nuôi con
Khi không đăng ký kết hôn, việc giành quyền nuôi con của cha sẽ gặp khó khăn khi không thoả thuận được với người mẹ. Do đó, để giành quyền nuôi con, người cha cần đáp ứng đủ các điều kiện nêu trên và được tòa án chấp thuận. Nếu có thắc mắc trong quá trình tìm hiểu hay yêu cầu giải quyết tranh chấp, hãy liên hệ hỏi luật sư qua Hotline 0937.552.925 để được Luật sư Hôn nhân và Gia đình giải đáp kịp thời. Xin cảm ơn.
Tham khảo thêm bài viết liên quan khác: Giải quyết tranh chấp chung tài sản khi không đăng ký kết hôn